Dưới đây là năm sự thật thú vị mà ngay cả nhiều người chơi kèn Clarinet cũng không biết về nhạc cụ của họ:
1. Là một trong những nhạc cụ mới dành cho dàn nhạc
Clarinet là một loại nhạc cụ khá mới trong số các loại nhạc cụ bộ hơi bằng gỗ. Được cho là phát minh bởi nhà sản xuất nhạc cụ Nuremberg Johann Christoph Denner vào đầu thế kỷ XVIII. Một nhạc cụ tương tự – chalumeau – cũng đã tồn tại vào thời điểm đó. Tuy nhiên, chalumeau chỉ nghe tốt chủ yếu ở các quãng âm thấp hơn, trong khi kèn clarinet có chất lượng âm thanh phong phú ở cả quãng âm thấp và cao. Có thể vì lý do này, cái tên “clarinet” ban đầu có nghĩa là “chiếc kèn nhỏ” (“clarino” có nghĩa là kèn).
Clarinet tạo ra âm thanh nhờ một cây sậy duy nhất gắn vào ống nghe. Một số phím ngón tay vật lý được gắn vào phần hình trụ (được gọi là phần thân) và được sử dụng để thay đổi cao độ. Cho đến nửa đầu thế kỷ XVIII, kèn clarinet chỉ có hai phím ngón tay. Tuy nhiên, nhiều tính năng đã dần được thêm vào nhạc cụ để cho phép người chơi kèn Clarinet chơi các âm giai và nốt nhạc dễ dàng hơn.
Các phím của một cây Clarinet.
Cấu hình của chiếc kèn hiện tại đã là tiêu chuẩn được Klosé hoàn thiện vào giữa thế kỷ XIX, dựa trên ý tưởng của Theobald Boehm. Vì nhạc cụ dựa trên hệ thống của Boehm nên nó được gọi là kèn clarinet Boehm.
2. Clarinet là loại nhạc cụ có rất nhiều nhánh nhỏ
Họ clarinet bao gồm một số nhạc cụ tương tự. Bao gồm các nhạc cụ có nhiều kích cỡ khác nhau, chẳng hạn như kèn clarinet piccolo (hoặc sopranino) và alto clarinet, cũng như các nhạc cụ có cấu tạo hơi khác nhau, chẳng hạn như kèn basset. Kèn basset, với ống cong, được phát minh vào nửa sau của thế kỷ XVIII và chủ yếu được sử dụng trong các tác phẩm của các nhà soạn nhạc cổ điển.
Ngoài ra còn có các cây clarinet có kích thước tương tự với các cao độ khác nhau và chiều dài ống khác nhau. Ví dụ, có một số loại clarinet soprano, trong các phím khác nhau, trong khoảng phím từ Đô trưởng (C) (có ống ngắn nhất) đến hợp âm Sol trưởng (G) (có ống dài nhất). Tuy nhiên, Soprano Clarinet quãng phím Si Giáng (B♭) và La trưởng (A) là 2 loại phổ biến nhất.
3. Clarinet cũng có phiên bản Bass (và Contrabass)
4. Clarinet đã được làm từ nhiều vật liệu khác nhau
Hầu hết các cây kèn clarinet ban đầu được làm bằng gỗ hoàng dương hoặc gỗ mun – những vật liệu tương tự cũng được sử dụng để làm recorder (sáo). Vào những ngày đó, cây sậy được giữ cố định bằng các cuộn dây thay vì chỉ có một sợi dây buộc.
Ngày nay, grenadilla là vật liệu được sử dụng phổ biến nhất để sản xuất kèn clarinet. Nó có độ dày tương đối cao hơn so với gỗ hoàng dương, tạo cho nhạc cụ một âm sắc đẹp và đa dạng. Ngoài ra, nó cung cấp một dải âm rộng hơn – khi chơi nhẹ nhàng, âm thanh trở nên mềm mại và tinh tế, uyển chuyển hơn.
5. Là nguồn cảm hứng chính cho các nhà soạn nhạc
Sự phong phú đặc biệt của âm sắc kèn clarinet và sức biểu đạt của nhạc cụ này từ lâu đã chạm đến cảm xúc của các nhà soạn nhạc.
Điển hình là Mozart, ông đã viết một tác phẩm tuyệt vời cho kèn clarinet, Clarinet Concerto in A major, Köchel 622. Người ta nói rằng ông đã được truyền cảm hứng rất nhiều khi gặp gỡ nghệ sĩ kèn clarinet Anton Stadler. Vào những ngày đó kèn clarinet mới chỉ được phát minh, vì vậy Mozart hẳn đã rất háo hức viết các bản nhạc cho loại kèn này để tìm ra cách tốt nhất để sử dụng nhạc cụ mới trong các buổi biểu diễn.
Trong những năm cuối đời, Brahms cũng viết nhiều tác phẩm cho kèn clarinet. Giống như trường hợp của Mozart, việc gặp gỡ một nghệ sĩ kèn clarinet có ảnh hưởng – Richard Mühlfeld – đã khơi dậy sự sáng tạo của ông và tạo ra Clarinet Quintet in B, được coi là một kiệt tác trong số các tác phẩm cổ điển vĩ đại.
Một trong những nhà soạn nhạc kiệt xuất nhất của Mỹ trong thế kỷ XX cũng đã được cây kèn làm say đắm đó là Aaron Copland, người đã viết nên tác phẩm Clarinet Concerto nổi tiếng cho nghệ sĩ kèn clarinet Benny Goodman. Đi ngược lại với sự đa dạng âm sắc của dàn nhạc giao hưởng, tác phẩm có những đoạn điêu luyện và chỉ mang nét đặc trưng của Jazz để phù hợp với Goodman – bậc thầy của swing jazz. Tình cờ thay, vở kịch của Goodman đã thu hút nhiều nhà soạn nhạc, với Bartók’s Contrasts và một bản hòa tấu của Hindemith cũng dành riêng cho ông.